Thứ Năm, 9 tháng 7, 2015

Sáu loài giun sán trong máu cần xét nghiệm, giun sán hay gặp ở Miền nam Việt Nam

0 nhận xét

Bệnh giun sán có rất nhiều loại, trong đó có 7 loại hay gặp ở Việt Nam là:
Sán lá gan lớn (Fasciola sp)
Giun đầu gai (Gnathostoma)
Giun lươn (Strongyloides)
Giun đũa chó/mèo Toxocara spp (Sán chó)
Amíp (amebiasis) Sán máng (Schistosomiasis)
Sán lá phổi (Paragonimus)
Ở Miền Nam chưa có trường hợp nào mắc sán lá phổi, lý do là không có yếu tố dịch tễ. Bạn sống ở Miền Nam nên xét nghiệm những loại giun sán hay gặp trên trừ sán lá phổi.
Vấn đề vệ sinh ăn uống rất quan trọng trong việc phòng bệnh giun sán, nhiều người nói tôi ăn uống kỹ lưỡng lắm làm sao tôi có thể bị nhiễm giun sán được, rất khó để khẳng định điều đó trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
Bệnh giun sán được tổ chức Y tế Thế giới gọi là bệnh lãng quên bởi lẽ sự chủ quan của con người đối với bệnh này. Mặc dù tỉ lệ nhiễm rất cao nhưng nó không gây chết người ngay nên mọi người có ý chủ quan không quan tâm đến bệnh giun sán.
Phần lớn những bệnh nhân tới khám là do bị ngứa da, mề đay, dị ứng, điều trị da liễu không khỏi, hoặc đi cầu thấy nhột nhột ở hậu môn, có khi có đốt sán bò ra hậu môn, ra nệm, giường, chiếu rồi mới tá hỏa search mạng xem bệnh gì và cấp tốc đi khám. Trường hợp của bạn có suy nghĩ đến việc xét nghiệm kiểm tra giun sán định kỳ như vậy là rất tốt.
Theo khuyến cáo của WHO thì nên xét nghiệm định kỳ bệnh giun sán 6 tháng đến 1 năm một lần, đặc biệt là trẻ em vì chúng thường thiếu ý thức trong vệ sinh hàng ngày và nếu bị nhiễm giun sán trẻ em sẽ bị còi xương, suy dinh dương, kém tiếp thu bài vở.
Mọi thông tin chi tiết về xét nghiệm máu tại nhà vui lòng liên hệ: 0979 755 453

Xét nghiệm máu tại nhà bệnh giun đũa chó ở người

0 nhận xét
1. Giun đũa chó Toxocara canis và-mèo Toxocara cati một bệnh gây ra ở người do ký sinh trùng.
Đây là một bệnh do ký sinh trùng ký sinh lạc chủ gây ra, lạc chủ bởi vì vật chủ ký sinh của chúng là chó, mèo chứ không phải người. khi người bị nhiễm chúng vì bất cứ lý do gì thì chúng sẽ ký sinh lạc chủ ở người và có thể gây ra bệnh cho người. bệnh giun đũa ở chó, mèo ở người có thể có 3 loại hội chứng: u hạt do ấu trùng (larval granulomatosis), ấu trùng di chuyển nội tạng ở người (Viceral larva migrans [VLM] in man), ấu trùng di chuyển ở mắt (Ocular larva migrans-OLM).
Về hình thái học: con đực có kích thước 4-10cm và con cái 6-18cm. Hình dáng trông giống con giun đũa giai đoạn trẻ (young ascaris), các móc của giun phần cổ hẹp ở đoạn cuối. Trứng có hình bán thùy, dày, vỏ bị rỗ, kích thước 90 x 75micron.
2. Chu kỳ sinh học và phát triển ở chó, mèo:
Chu kỳ của Toxocara canis tương tự chu kỳ sinh học của giun đũa ngườiAscaris lumbricoides. Một điểm khác biệt là vật chủ cuối cùng phân bố trong phạm vi rộng hơn. Vật chủ cuối cùng là những động vật ăn thịt họ chó của gia đình nuôi, trong khi đó vật chủ ăn thịt các họ khác, bao gồm người thì chưa rõ. Những điểm đặc biệt là con đường di chuyển trong cơ thể chó có khác nhau tùy thuộc độ tuổi, giới tính và khả năng dung nạp của chó.
Chó nhiễm bệnh do ăn phải những trứng giun có phôi (embryonated eggs) hay mô động vật có chứa ấu trùng giun đũa chó. Tuy nhiên, hành vi của ấu trùng khác nhau phụ thuộc vào tuổi và giới tính của chó. Trên những con chó trẻ (< hơn 3 tháng) trứng sẽ đẻ trong tá tràng và ấu trùng vào trong hệ bạch huyết và hệ mao tĩnh mạch, từ đây sẽ mang chúng đến gan, tim và phổi- nơi đó ấu trùng sẽ phát triển và thoát vỏ /thay vỏ. Tiếp đến ấu trùng sẽ xuyên qua khí quản vào trong thực quản và đến ruột non. Những trứng đầu tiên xuất hiện trong phân là vào thời điểm 4-5 tuần sau khi nhiễm. Tuy nhiên, ở những con chó lớn tuổi hơn, ấu trùng hiếm khi xuyên qua phổi đến khí quản (theo đường di chuyển [lung-trachea migration]). Hầu hết chúng vào trong dòng máu rồi phân tán trong toàn bộ cơ thể và mô của vật chủ chó; đặc biệt là chúng vẫn giữ nguyên ấu trùng giai đoạn nhiễm cho đến khi chúng đến mô.
Tầm quan trọng của quá trình di chuyển trong cơ thể này (khác với di chuyển đến phổi và khí quản) là thuận lợi trong lây truyền chu sinh (prenatal), chẳng hạn, ấu trùng xuyên qua bọc thai chó cái đến phát triển trong phôi thai. Ấu trùng vẫn tồn tại trong gan phôi thai cho đến khi sinh và rồi chúng tiếp tục di chuyển đến phổi, khí quản và ruột non; tại đó ấu trùng sẽ trưởng thành. Ngoài sự lan truyền chu sinh, sự lan truyền qua đường sữa mẹ (transmammary) đôi khi cũng xảy ra.
Chu kỳ sinh học của Toxocara cati gần tương tự Toxocara canis. Khi những trứng embryonated egg trưởng thành được nuốt vào, chúng phát triển đến giai đoạn trưởng thành thông qua đường di chuyển phổi-khí quản. trong những trường hợp nhiễm ở mèo trưởng thành, một vài trứng bị ăn vào sẽ phát triển theo hướng này, nhưng một số khác sẽ ký sinh trong những mô khác nhau như giai đoạn ấu trùng. Mặc dù nhiễm trùng qua con đường nhau thai không xảy ra, ấu trùng ở con mèo cái đi vào tuyến sữa, nhiễm cho mèo con qua đường sữa.
3. Đường lây nhiễm:
3.1. Trên chó và mèo:
a.Trực tiếp bằng con đường tiêu hóa trứng nhiễm ấu trùng từ đất.
b.Gián tiếp bằng cách ăn các vật chủ ăn thịt
c.Nhiễm trùng chu sinh (chỉ có T.canis)
d.Tiêu hóa ấu trùng qua con đường phân
e.Lây truyền qua đường sữa
3.2.Trên người:
a.Gián tiếp bằng cách tiếp xúc với các vật bị nhiễm ấu trùng
b.Gián tiếp qua cách ăn đất (geophagia), phân (coprophagia) hay các thực phẩm có trứng giun đũa chó nhiễm.
c.Trực tiếp bằng cách tay nhiễm tiếp xúc các cô bảo mẫu nhiễm mầm bệnh hay miệng, tả lót,…
Con người bị nhiễm phải do nuốt trứng trưởng thành hoặc ăn thịt của vật chủ khác có chứa ấu trùng. Trên trẻ em từ 1 - 4 tuổi sẽ có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn do có nhiều cơ hội nhiễm từ đất. Sau khi tiêu hóa, ấu trùng tách ra khỏi trứng trưởng thành đi đến những cơ quan khác bằng con đường di chuyển trong cơ thể. Chúng cũng có thể chu du vài lần đến các mô, cuối cùng đóng kén thành ấu trùng và tạo u hạt, làm tăng bạch cầu eosin ở tất cả các cơ quan chính của cơ thể, trong đó bao gồm cả não và mắt.
4. Dịch tễ:
Bệnh do giun đũa chó, mèo gây ra có thể xuất hiện khắp mọi nơi trên thế giới, không phụ thuộc nông thôn hay thành thị, ngay cả những nước tiên tiến vẫn có khả năng nhiễm và thậm chí nhiễm nhiều. Do vậy, một số quốc gia có các bác sĩ chuyên chăm sóc cho con vật cảnh, vật cưng, thú nuôi trong nhà như tại Nhật Bản, Mỹ, Úc, Pháp, Chi Lê, Na Uy,….


[​IMG]



II. Triệu chứng học:
Triệu chứng lâm sàng phụ thuộc rất nhiều vào số lượng và vị trí ký sinh của sán đối với vật chủ, và biểu hiện triệu chứng bắt đầu từ các cơ quan bị nhiễm. Có thể không có triệu chứng nếu nhiễm trùng nhẹ, ấu trùng có thể lang thang trong gan, phổi, tim, não, mắt và có thể gây ra hội chứng tăng eosin mạn tính, tăng bạch cầu, sốt, gan to, viêm phế quản, giả hen, viêm phổi, viêm cơ tim, động kinh hoặc trì trệ trí tuệ, viêm võng mạc, viêm kết mạc, viêm màng bò đào, viêm nhãn cầu... Trong quá trình lưu hành trong cơ thể chúng đi đến các mô khác nhau và gây ra ít nhất 3 triệu chứng ở người:
- U hạt do ấu trùng (larval granulomatosis),
- Hội chứng ấu trùng di chuyển trong tạng (visceral larva migrans syndrome),
- Hôi chứng ấu trùng di chuyển trong cơ quan mắt (ocular larva migrans syndrome)
Và phần lớn là nhiễm giun đũa chó / mèo ẩn không triệu chứng (covert toxocariasis).
III. Chẩn đoán :
1. -Trên chó và mèo: xét nghiệm phân chẩn đoán dựa trên đặc điểm trứng hoặc tìm thấy giun trong mẫu phân;
2.-Trên người: chẩn đoán lâm sàng thường không chắc chắn bởi lẽ triệu chứng giun đũa chó và mèo không điển hình; sinh thiết gan, tìm thấy giun và test huyết thanh miễn dịch sẽ hỗ trợ chẩn đoán rất nhiều.
Thật khó chẩn đoán xác định dựa trên lavabo bởi vì cả trứng và sán đều không đi qua phân người, kết quả sinh thiết thường không xác định cho dù tổn thương các mô lan rộng.
Ngoài ra, những dấu hiệu tự nhiên và lâm sàng không đặc hiệu có thể dẫn đến chẩn đoán không chính xác hoặc thiếu cơ sở.
- Test huyết thanh miễn dịch ELISA rất có ích trong chẩn đoán. Sử dụng ELISA đặc hiệu kháng nguyên giai đoạn ấu trùng sẽ có hiệu quả và độ nhạy hơn các tét chẩn đoán khác nếu huyết thanh được ủ /hấp phụ làn đầu tiên với kháng nguyên trong huyết thanh Ascaris để loại bỏ những kháng thể gây ra phản ứng chéo.
Các xét nghiệm khác có thể biểu hiện tăng gammaglobuline máu và tăng hiệu giá kháng thể anti-A hoặc anti-B isohemagglutinin. U hạt hoặc dạng abces có thể xuất hiện trên phim chụp CT scans với hình ảnh giảm âm giống như tổ chức viêm nhiễm.
- Test trong da hay lẩy da Toxocara có thể cho phản ứng dương tính giả do các dị nguyên chia sẽ chung (shared allergens) giữa Toxocara Ascaris.
- Các phương pháp đo quang ( phương pháp ELISA đo mật độ quang) có giá trị chẩn đoán xác định cao hơn .
3. Chẩn đoán xác định một bệnh hệ thống do ký sinh trùng giun đũa chó
1.Sự hiện diện của các triệu chứng lâm sàng đặc biệt (gan to)
2.Các xét nghiệm cận lâm sàng (tăng bạch cầu, đặc biệt tăng bạch cầu eosin tăng trên 8% , có thể tăng trên 50%, hiệu giá isohemagglutinin và tăng gammaglobulin huyết thanh;
3.Tiền sử lâm sàng (có tiếp xúc nguồn lây chó mèo, hoặc thói ăn đất ở trẻ em)
4. Sự có mặt của test huyết thanh dương tính với kháng thể kháng Toxocara spp trong huyết thanh (ELISA hoặc Ouchterlony test).
IV. Điều trị:
Hiện tại có rất nhiều loại thuốc trên thị trường có hiệu quả với bệnh giun đũa cho mèo này, song mỗi loại thuốc có cơ chế tác dụng riêng và có những tác dụng phụ nhất định. Phần lớn liệu trình điều trị thuốc nào cũng vậy là dài ngày nên khó tránh khỏi các cảm giác khó chịu, nhất là triệu chứng rối loạn tiêu hóa. Dưới đây là một số thuốc có hiệu quả và đã được nghiên cứu:
- Thiabendazole 25mg/kg cân nặng, hai lần/ngày trong 21 ngày.
- Dietylcarbamazine 3mg/kg cân năng 3 lần/ ngày trong 21 ngày.
- Albendazole gần đây cũng cho thấy có hiệu quả trên truờng hợp nhiễm giun đũa chó, với liều cao 800mg/ ngày trong 2-3 tuần.
Vì đây là giun đũa chó sống ký sinh lạc chủ cho nên ấu trùng giun không ở trong ruột mà chúng giao du khắp nội tạng, mô mềm và da. Chính vì vậy mà vấn đề điều trị rất khó khăn và liệu trình điều trị dài ngày chứ không phải chỉ uống một liều duy nhất như giun đũa người.
1. Phát đồ điều trị:
- Hiện nay thuốc được lựa chọn là Albedazol có rất nhiều biệt dược trên thị trường và rất nhiều hảng sản xuất kể cả trong nước và thuốc ngoại nhập.
- Phát đồ điều trị là 21 ngày với 800 mg/ ngày . Nếu trong thời gian sau điều trị liệu trình đầu tiên mà các triệu chứng đặc hiệu cải thiện rõ thì không điều trị lặp lại, nếu sau điều trị liệu trình đầu tiên mà các triệu chứng đặc hiệu không cải thiện thì xem xét điều trị liệu trình tiếp theo là 14 ngày với 800 mg/ ngày và cách lệu trình đầu tiên ít nhất là 01 tháng để tránh ngộ độc cho gan có thể xảy ra. Trong trường hợp sau điều trị liệu trình thứ 2 mà các triệu chứng đặc hiệu không cải thiện thì có thể xem xét điều trị liệu trình lần 3 với 7 ngày, nếu vẫn còn triệu chứng thì cần rà soát lại triệu chứng đó có phải là do giun đũa chó gây ra hay không, xét nghiệm dương tính đó có đúng chưa, cần phải xem xét loại trừ để có hướng chẩn đoán khác và điều trị thích hợp.
- Lưu ý Tác dụng phụ của thuốc: có khá nhiều tác dụng không mong muốn nhưng điều đáng lưu ý là viêm gan và giảm bạch cầu hạt. Do vậy trước khi điều trị và sau khi điều trị một liệu trình việc kiểm ra công thức bạch cầu, chức năng gan và siêu âm gan là rất cần thiết.
2. Xét nghiệm theo dõi sau điều trị:
Vì sau khi giun chết thì kháng thể vẫn còn tồn tại trong máu người bệnh một thời gian khá dài, do đó xét nghiệm để theo dõi kết quả điều trị có đáp ứng hay không thì phải lá 6 tháng và 12 tháng sau điều trị, nếu hiệu giá kháng thể giảm dần thì liệu trình điều trị có đáp ứng tốt.
V. Phòng bệnh:
1.Hạn chế tối đa tiếp xúc, các chó mèo bị nhiễm và môi trường nghi ngờ có bệnh;
2.Kiểm tra phân của những chó con hàng tuần và tẩy giun mỗi tháng cho đến khi phân trở nên âm tính; Phải có quy trình kiểm tra phân định kỳ mỗi năm cho chó và có kế hoạch điều trị cần thiết;
3. Không để chó chạy trong khu vườn chơi trẻ con, công viên và không để trẻ chơi với chó.
4. Nhanh chóng loại bỏ các thùng chứa phân chó, nơi gủ của chó cần phải cách ly với người và phải được dọn sạch, khử trung hàng ngày;
5. Kiểm soát chó chặt chẽ và buộc dây xích, không để chó nhảy rông.
6. Tuyên truyền giáo dục sức khỏe cho công đồng và những chủ vật nuôi bởi các nhà thú y, các thầy thuốc, các nhà hoạt động xã hội để góp phần vào công tác dự phòng và phòng chống bệnh.
7. Rửa ta cho trẻ con sau khi chơi ở nơi có cát và vật nuôi.

B. TẠI SAO TỶ LỆ NHIỄM GIUN ĐŨA CHÓ/MÈO Ở NGƯỜI LẠI CAO NHƯ HIỆN NAY
Trong thời gian qua, khá nhiều bệnh nhân hoang mang và thậm chí mất bình tĩnh khi cầm trên tay một xét nghiệm huyết thanh miễn dịch ELISAdương tính với giun đũa chó, trong khi đó có người biểu hiện triệu chứng hoặc không biểu hiện triệu chứng, nhưng phần lớn các triệu chứng lâm sàng này không điển hình và rất mơ hồ và một điểm chung là cảm thấy “ ngứa, đau đầu, khó chịu trong người”.
Trong thời gian gần 2 năm qua, dường như trên 85% số người đến khám và nhập viện hoặc kiểm tra xét nghiệm bộ chẩn đoán các loại giun sán (gồm ELISA cho sán lá gan lớn Fasciolae spp. , ấu trùng sán lợn Cysticercosis, giun đầu gai Gnathostoma spinigerum, giun lươn Strongyloides stercoralis, giun đũa chó/mèo Toxocara spp. ngẫu nhiên tại các viện, bệnh viện nhà nước và cơ sở điều trị tư nhân trong cả nước, kể cả tại Bệnh viện Phong Da liễu Trung ương Quy Hòa cho thấy phần lớn dương tính với giun đũa chó, mèo Toxocara spp.
Một điều đáng chú ý là bất luận có kết hợp triệu chứng lâm sàng trên bệnh nhân hay không, thông số bạch cầu eosin tăng cao hay không? Các thông số khác về sinh hóa, huyết học,...(nghĩa là liệu có đủ tiêu chuẩn để chẩn đoán một ca bệnh giun đũa chó, mèo hay không?) thì các bác sĩ điều trị vẫn kê đơn như một bài học thuộc lòng là Albendazole 42 viên, 28 viên, rồi lại 14 viên, rồi đâu lại vào đó, có trường hợp bệnh nhân dùng đến tổng cộng 168 viên Albendazole 400mg....mà bệnh nhân thì vẫn cứ ngứa, cứ nổi mề đay, cứ xuất hiện dát mảng đỏ. Thậm chí có trường hợp bệnh nhân biểu hiện lâm sàng rất rõ là biểu hiện một viêm da tiết bả nhờn cũng chẩn đoán do giun đũa chó (vì xét nghiệm ELISA Toxocara spp dương tính 1/1600) nên cứ thế điều trị và theo dõi 6 tháng, đến khi bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Phong và da liễu Trung ương Quy Hòa mới được các bác sĩ xác định là bệnh viêm da dầu tiết bã và còn nhiều ca bệnh khác nữa ....
Vậy nguyên nhân do đâu mà dẫn đến hiện tượng người người nhiễm giun đũa chó, nhà nhà, người người điều trị giun đũa chó như vậy. Thực hư tình trạng nhiễm/ bệnh giun đũa chó / mèo như thế nào hiện nay? Đó cũng là câu hỏi mà bạn đọc cũng như nhiều đồng nghiệp hoặc người thân gia đình đi xét nghiệm với kết quảToxocara spp dương tính và một túi thuốc trên tay; tại sao ai cũng mắc giun đũa chó vậy?
Dưới đây là các dẫn liệu dựa trên y học chứng cứ.
1. Thứ nhất, một công trình nghiên cứu rất tuyệt vời của nhóm tác giả Mustafa Kaplan, Ahmet Kalkan, Salih Kuk, Kutbeddin Demirdag, Mehmet Ozden, and S. Sirri Kilic đang công tác tại đại học y khoa, khoa ký sinh tùng y học, khoa vi trùng học cùng tiến hành và đăng trên tạp chí Yonsei Med J Vol. 49, No. 2, 2008 cho biết: Một tỷ lệ huyết thanh dương tính cao với Toxocara đã được báo cáo tại nhiều quốc gia đang phát triển-nơi mà thời tiết ở đó ẩm, ấm thích hợp cho trứng sống sót và phát triển trong đất. Bệnh giun đũa chó mèo thường gặp ở những nơi mà quần thể chó lớn nhưng tình trạng vệ sinh kém. Quần thể nhiễm bệnh cao bao gồm trẻ em, người chủ nuôi chó, người đang sống tại các vùng nông thôn và người có hội chứng pica. Có một mối liên quan chặt chẽ giữa lối sống và nguy cơ nhiễm bệnh Toxocara được ghi nhận. Ngoài ra, nhiễm Toxocara có thể tăng trên những đối tượng trí tuệ phát triển chậm hoặc bệnh lý thần kinh khi họ không thực hiện đầy đủ vệ sinh. Điển hình, các bệnh nhân bị tâm thần phân liệt vệ sinh kém và kỹ năng chăm sóc bản thân kém. Mục đích trong nghiên cứu của họ là điều tra tỷ lệ huyết thanh dương tính với giun đũa chó mèo trong số các bệnh nhân tâm thần phân liệt và so sánh chúng với nhóm người khỏe mạnh tại Thỗ Nhĩ Kỳ.
Chẩn đoán bệnh giun đũa chó mèo hiện tại dựa vào các xét nghiệm huyết thanh học sử dụng các kháng nguyên tiết (excretory-secretory antigens) từ ấu trùng giai đoạn 2 của T. canis (TES), vì chúng thật khó phát hiện một ấu trùng Toxocaragiai đoạn nhiễm trên mẫu sinh thiết. ELISA và Western-blott là các xét nghiệm thường được sử dụng nhất để xác định kháng thể kháng Toxocara.
Chúng ta cũng nên biết xét nghiệm ELISA hiện đang làm phổ biến, không đắt tiền và đặc biệt chúng được khuyến cáo rất nhiều trong nghiên cứu đánh giá về mặt dịch tễ học. Các xét nghiệm ELISA có sử dụng kháng nguyên TES thì cho độ đặc hiệu cao (86 - 100%) và độ nhạy cũng vậy (80 - 100%). Phản ứng dương tính chéo đã được báo cáo rất nhiều trong các chuyên san về xét nghiệm huyết thanh học ở nhiễm trùng giun sán như dương tính chéo với 14 loại bệnh giun sán khác nhau: giun chỉ, giun xoắn, giun lươn, giun đầu gai, giun mạch, bệnh do ký sinh trùng anisakiasis, giun đũa, giun móc, sán máng, sán lá phổi, sán lá gan lớn, sán nhái và bệnh spirometriasis) khi sử dụng các kháng nguyên TES để xét nghiệm tìm kháng thể mặc dù đã sử dụng kháng nguyên tái tổ hợp.
2. Thứ hai, cũng cần lưu ý đến các kít chẩn đoán huyết thanh học hiện nay xem thử loại kháng nguyên cài đặt là loại kháng nguyên thân hay kháng nguyên tiết để chúng ta mới có khả năng đánh giá gần chính xác trên bệnh nhân để đưa ra quyết định điều trị;
3. Thứ ba, việc chẩn đoán xác định và đưa ra quyết định điều trị còn tùy thuộc rất nhiều yếu tố chứ không chỉ đơn thuần chỉ mỗi xét nghiệm dương tính ELISA vì chúng không phải là “chuẩn vàng” trong chẩn đoán bệnh giun đũa chó.
4. Thứ tư, hiện nay các phòng xét nghiệm phần lớn chỉ dừng lại đọc kết quả dương tính dạng hiệu giá kháng thể 1/800; 1/1600; 1/3200; 1/6400 chứ chưa áp dụng các phương pháp đo quang, nên kết quả xét nghiệm còn hạn chế trong việc đánh giá giữa âm tính và dương tính. Nói tóm lại, thực tế xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán hiện nay đánh giá tỷ lệ dương tính của giun đũa chó, để từ đó làm cơ sở cho điều trị và theo dõi diễn tiến bệnh là chưa phải là một kỹ thuật chẩn nhất tốt nhất.
Mọi thông tin chi tiết về xét nghiệm máu tại nhà vui lòng liên hệ: 0979 755 453

Xét nghiệm phát hiện ung thư sớm tại nhà

0 nhận xét

A. Kiểm tra tầm soát ung thư

+/ Đối với những bệnh nhân từ 20 tuổi trở lên, tầm soát ung thư cần bao gồm tư vấn y khoa, và tùy theo tuổi và giới tính, có thể bao gồm tầm soát ung thư tuyến giáp, khoang miệng, da, các hạch lymphô, tinh hoàn, buồng trứng,đồng thời với một số bệnh lý không ung thư khác.

+/ Những xét nghiệm đặc hiệu cho một số bệnh ung thư sẽ được đề cập đến ở phần dưới đây.

B. Ung thư tuyến vú
Ung thư vú
+/ Chụp nhũ ảnh bắt đầu từ tuổi 40 và tiếp tục mỗi năm sau đó.
+/ Với phụ nữ từ 20 đến 30 tuổi và mỗi năm sau đó đối với phụ nữ từ 40 tuổi trở lên.
Phụ nữ cần biết cách tự thăm khám vú của mình và báo cáo ngay cho bác sĩ nếu phát hiện những bất thường. Nên tự thăm khám vú (Breastself-exam=BSE) bắt đầu từ 20 tuổi trở lên.
Phụ nữ có nguy cơ cao (>20%) cần được chụp MRI và nhũ ảnh mỗi năm.
C. Ung thư đại trực tràng
Hình ảnh ung thư đại tràng

Bắt đầu từ tuổi 50,nam lẫn nữ có nguy cơ ung thư đại trực tràng ở mức độ trung bình nên thực hiện một trong các xét nghiệm tầm soát sau đây. Nên chọn các xét nghiệm nào giúp phát hiện các polyp và ung thư ở giai đoạn sớm.
1.Các xét nghiệm tầm soát polyp và ung thư. 
 – Nội soi đại tràng sigma bằng ống mềm mỗi 5 năm
 – Nội soi đại tràng mỗi 10 năm
 – Chụp đại tràng đối quang kép (double contrast barium enema) mỗi 5 năm.
 – MSCT đại tràng(nội soi đại tràng ảo=virtual colonoscopy) mỗi 5 năm
2.Các xét nghiệm chủ yếu tìm ung thư
Xét nghiệm máu ẩn trong phân (fecal occult blood test=FOBT) mỗinăm
Xét nghiệm hóa miễn dịch phân (fecal immunochemical test=FIT)mỗi năm
Xét nghiệm DNA trong phân (sDNA)
Nội soi đại tràng nếu các kết quả xét nghiệm trên dương tính.
-     Khi dùng FOBT hoặc FIT để tầm soát, cần kiểm tra nhiều mẫu.
-     Nên tầm soát ung thư đại trực tràng sớm hơn và thường xuyên hơn nếu có các yếu tố nguy cơ sau đây:
a.Tiền sử bản thân bị ung thư đại trực tràng hoặc polyp tuyến (adenomatous polyps)
Tiền sử bản thân viêm đại tràng mạn (bệnh Crohn hoặc viêm loét đại tràng)
c.Tiền sử gia đình về ung thư đại trực tràng hoặc polyps (cha mẹ, anh chị em ruột, con cái)
d.Tiền sử gia đình về các hội chứng ung thư đại trực tràng như bệnh đa polyp tuyến gia đình (familialadenomatous polyposis=FAP) hoặc bệnh ung thư đại tràng không polyp di truyền(hereditary non-polyposis colon cancer=HNPCC)

3. Ung thư cổ tử cung (CTC)

Các giai đoạn của ungthư cổ tử cung

·Tất cả phụ nữ nên được tầm soát ung thư cổ tử cung khoảng 3 năm sau khi bắt đầu có quan hệ tình dục, nhưng không được muộn hơn 21 tuổi. Tầm soát nên được thực hiện mỗi năm bằng xét nghiệm Pap thông thường hoặc mỗi 2 năm nếu sử dụng xét nghiệm Pap mới (dùng dung dịch).
Bắt đầu từ tuổi 30, những phụ nữ có 3 lần xét nghiệm Pap liên tục bình thường sẽ được tầm soát mỗi 2 đến 3 năm một lần.
Một chọn lựa hợp lý khác cho phụ nữ trên 30 là nên được tầm soát mỗi 3 năm bằng xét nghiệm Pap quy ước hoặc bằng xét nghiệm Pap dùng dung dịch,đồng thời với xét nghiệm HPV DNA.
 – Những phụ nữ có các yếu tố nguy cơ như phơi nhiễm với diethylstilbestrol (DES) trước khi sanh ra, nhiễm HIV, hệ miễn dịch suy yếu do ghép tạng, hóa trị liệu, hoặc dùng steroid mạn tính cần tiếp tục được tầm soát mỗi năm.
 – Những phụ nữ từ 70 trở lên đã có từ 3 lần xét nghiệm Pap liên tục bình thường trở lên vàkhông có kết quả Pap bất thường trong 10 năm trở lại đây có thể được xét ngừng tầm soát ung thư cổ tử cung. Những phụ nữ có tiền sử phơi nhiễm với DES trước khi sanh, nhiễm HIV infection hoặc hệ miễn dịch suy yếu cần được tiếp tục tầm soát.
 – Phụ nữ đã được phẫu thuật cắt toàn bộ tử cung có thể ngưng tầm soát ung thư cổ tử cung, trừ phi phẫu thuật được thực hiện để điều trị ung thư CTC hoặc tình trạng tiền ung thư. Phụ nữ đã cắt tử cung nhưng chừa lại CTC vẫn nên được tiếp tục tầm soát theo khuyến cáo đã nêu trên.
 4. Ung thư nộimạc tử cung (Endometrial cancer, uterine cancer)
Hình ảnh ung thư nội mạc tử cung

 – Hiệp Hội Ung Thư Mỹ (The American Cancer Society) khuyến cáo nên thông tin về những nguy cơ và các triệu chứng của bệnh ung thư nội mạc tử cung cho tất cả các phụ nữ vào thời điểm mãn kinh, đồng thời khuyến khích họ báo cáo ngay cho bác sĩ về những lần xuất huyết âm đạo bất thường.
 – Phụ nữ có nguy cơ cao về ung thư đại tràng không polyp di truyền (hereditary non-polyposiscolon cancer=HNPCC) cần được tầm soát ung thư nội mạc tử cung mỗi năm, đi kèm với sinh thiết nội mạc tử cung, bắt đầu từ tuổi 35.
5. Ung thư tuyến tiền liệt
 */ Các giai đoạn của ung thư tuyến tiền liệt
-  Hiệp Hội Ung Thư Mỹ (ACS) hiện nay không ủng hộ xét nghiệm tầm soát thường quy ung thư tuyến tiền liệt. ACS cho rằng bác sĩ chuyên khoa nên thảo luận về những lợi ích và hạn chế của các xét nghiệm phát hiện ung thư tuyến tiền liệt sớm với thân chủ của mình trước khi thực hiện tầm soát. Thảo luận này nên bao gồm đề nghị xét nghiệm PSA (prostate-specific antigen) và thăm trực tràng bằng ngón tay (digital rectalexam=DRE) mỗi năm bắt đầu từ tuổi 50, cho những đàn ông có nguy cơ trung bình mắc ung thư tuyến tiền liệt và còn khả năng sống ít nhất 10 năm nữa. Sau khi thảo luận, sẽ thực hiện tầm soát cho những người mong muốn được xét nghiệm.
Nam giới cần tích cực tham gia tìm hiểu về ung thư tuyến tiền liệt, cùng những quan niệm trái ngược nhau trong việc phát hiện sớm và điều trị bệnh lý này.
Thảo luận này nên được bắt đầu từ tuổi 45 đối với nam giới có nguy cơ cao mắc ung thư tuyến tiền liệt.Được xem là có nguy cơ cao khi trong gia đình có cha, anh em, hoặc con trai bị ung thư tuyến tiền liệt trước 65 tuổi.
Thảo luận này nên được thực hiện ở tuổi 40 đối với nam giới có nguy cơ ở mức độ cao hơn (có nhiều người thân trực hệ sớm mắc ung thư tuyến tiền liệt).
Mọi thông tin chi tiết về Xét nghiệm máu tại nhà vui lòng liên hệ: 0979 755 453

Ý nghĩa các xét nghiệm đánh giá chức năng gan tại nhà

0 nhận xét

Có nhiều xét nghiệm tại nhà sinh hóa được dùng để đánh giá chức năng gan nhưng tùy theo từng bệnh cảnh lâm sàng mà bác sỹ chọn thực hiện những xét nghiệm thích hợp.

Cần lưu ý rằng các xét nghiệm dưới đây có khi không phản ánh đúng hoàn toàn tình trạng bệnh vì có một số trường hợp kết quả có thể bình thường mặc dù bệnh gan đã nặng và có thể bất thường ở những bệnh không ảnh hưởng đến gan. 

1. 
Enzym GOT, GPT huyết thanh
GOT, GPT là 2 enzym trao đổi amin (transaminase), có nhiều ở các tổ chức của cơ thể. Trong các enzym trao đổi amin, GOT và GPT có hoạt độ cao hơn cả và có ứng dụng nhiều trong lâm sàng. GOT có nhiều ở tế bào cơ tim, GPT có nhiều ở tế bào nhu mô gan. Sự tăng của các enzym này phản ánh tình trạng tổn thương tế bào gan.
AST (Aspartate aminotransferase) hay SGOT (Serum Glutamic Oxaloacetic Transaminase) 
Hiện diện trong bào tương và ty thể của tế bào. AST có nhiều trong cơ tim và cơ vân nhiều hơn ở gan. Ngoài ra, AST còn có ở thận, não, tụy, phổi, bạch cầu và hồng cầu. Bình thường AST < 40 UI/L. AST tăng trong nhồi máu cơ tim, sau 6-8h thì bắt đầu tăng, sau 24h đạt đỉnh cao, sau 4-6 ngày thì trở về bình thường. AST tăng trong mọi bệnh của gan, đặc biệt trong viêm gan siêu vi, AST và ALT tăng rất sớm 
ALT (Alanine aminotransferase) hay SGPT (Serum Glutamic Pyruvic Transaminase)
Hiện diện chủ yếu ở bào tương của tế bào gan cho nên sự tăng ALT nhạy và đặc hiệu hơn AST trong các bệnh gan. Bình thường ALT < 40 UI/L. 
Ở người lớn, nồng độ của GOT và GTP ở nam cao hơn nữ và cũng thay đổi theo tuổi và cân nặng. Các transaminase tăng trong hầu hết các bệnh về gan nhưng không hoàn toàn đặc hiệu cho gan vì còn tăng trong các bệnh khác như nhồi máu cơ tim, tổn thương cơ vân (viêm cơ, loạn dưỡng cơ), cường giáp hoặc nhược giáp, bệnh celiac... Ngược lại, các enzyme này có thể bị giảm giả tạo khi có tăng urê máu.
+ Viêm gan virut cấp: 
     - GOT, GPT đều tăng rất cao so với bình thường (có thể > 1000U/l), nhưng mức độ tăng của GPT cao hơn so với GOT, tăng sớm trước khi có vàng da, ở tuần đầu vàng da (tăng kéo dài trong viêm gan mạn tiến triển).
     - Hoạt độ GOT, GPT tăng hơn 10 lần, điều đó cho biết tế bào nhu mô gan bị hủy hoại mạnh. GOT tăng >10 lần bình thường cho biết tế bào nhu mô gan bị tổn thương cấp tính. Nếu tăng ít hơn thì có thể xảy ra với các dạng chấn thương gan khác.
       GOT, GPT tăng cao nhất ở 2 tuần đầu rồi giảm dần sau 7- 8 tuần.
+ Viêm gan do nhiễm độc: GOT, GPT đều tăng nhưng chủ yếu tăng GPT, có thể tăng gấp 100 lần vo với bình thường. Đặc biệt tăng rất cao trong nhiễm độc rượu cấp có mê sảng, nhiễm độc tetrachlorua carbon (CCl4), morphin hoặc nhiễm độc chất độc hóa học... Mức độ của LDH cao hơn các enzym khác: LDH > GOT > GPT.
Tỷ lệ GOT/GPT > 1, với GOT tăng khoảng 7 - 8 lần so với bình thường, thường gặp ở người bị bệnh gan và viêm gan do rượu.
+ Viêm gan mạn, xơ gan do rượu và các nguyên nhân khác: GOT tăng từ 2- 5 lần, GPT tăng ít hơn, mức độ tăng GOT nhiều hơn so với GPT.
+ Tắc mật cấp do sỏi gây tổn thương gan, GOT, GPT có thể tăng tới 10 lần, nếu sỏi không gây tổn thương gan thì GOT, GPT không tăng. 
Vàng da tắc mật thì GOT, GPT tăng nhẹ, mức độ tăng không đáng kể kết hợp với alkaline phosphatase tăng hơn 3 lần so với bình thường. GOT, GPT tăng chậm đều đến rất cao (có thể hơn 2000 U/l), sau đó giảm đột ngột trong vòng 12 - 72h thì được coi như là một tắc nghẽn đường dẫn mật cấp tính.
+ GOT còn tăng trong nhồi máu cơ tim cấp và trong các bệnh về cơ, nhưng GPT bình thường.
 GOT tăng rất cao, có thể tới 1000 U/l, sau giảm dần đến 50% trong vòng 3 ngày, giảm xuống dưới 100 U/l trong vòng 1 tuần gợi ý sốc gan với hoại tử tế bào nhu mô gan. Ví dụ: xơ gan, loạn nhịp, nhiễm khuẩn huyết.
+ Ngoài ra GOT, GPT tăng nhẹ còn gặp trong một số trường hợp có điều trị như dùng thuốc tránh thai, thuốc chống đông máu.

2. Ferritin
Là một loại protein dự trữ sắt ở trong tế bào, được cấu tạo gồm apoferritin gắn với sắt. Ferritin giữ nhiệm vụ điều chỉnh sự hấp thu sắt ở đường tiêu hóa tùy theo nhu cầu của cơ thể. Một số trường hợp viêm hoại tử tế bào gan cấp hoặc mạn tính, đặc biệt trong viêm gan virút C, ferritin tăng cao.
Bình thường, ferritin ở nam 100-300 mg/L, ở nữ 50-200 mg/L. Giảm ferritin gặp trong ăn thiếu chất sắt, thiếu máu thiếu sắt, ăn chay trường, xuất huyết rỉ rả, thiếu máu tán huyết mạn, người cho máu thường xuyên, chạy thận nhân tạo. Tăng ferritin còn gặp trong bệnh ứ sắt mô, bệnh ung thư (gan, phổi, tụy, vú, thận), bệnh huyết học (bệnh Hodgkin, bạch cầu cấp), hội chứng viêm và nhiễm trùng, bệnh thể keo (collagenosis), ngộ độc rượu, thiếu máu tán huyết, thalassemia…
(còn tiếp)
Nguồn
Theo benhho
c


Ý nghĩa của xét nghiệm chức năng gan tại nhà

0 nhận xét

Gan được coi như một cơ quan cửa ngõ của cơ thể, có các chức năng bài tiết và kích thích bài tiết, chức năng chuyển hóa, khử độc và chuyển hóa thuốc. Các xét nghiệm tại nhà chức năng gan được dùng để phát hiện, chẩn đoán, đánh giá mức độ nặng nhẹ của bệnh về gan, kiểm tra kết quả điều trị và tiên lượng bệnh. Các xét nghiệm phổ biến nhất bao gồm:
SGPT (ALT)
Enzym ALT có nhiều trong bào tương của tế bào gan, trong khi enzym AST có nhiều trong cả bào tương và ty thể của các tế bào gan, tim và cơ.
Hoạt độ ALT (và cả AST) huyết tương tăng trong bệnh lý gan mật: viêm gan cấp, nhất là viêm gan do virus các typ A, B, C, D, E, nhiễm ký sinh trùng (sán lá gan), nhiễm độc rượu, nấm độc, ngộ độc thức ăn.
SGOT(AST)
Enzym AST có nhiều trong cả bào tương và ty thể của các tế bào gan, tim và cơ.
Hoạt độ AST huyết tương tăng (>ALT) trong nhồi máu cơ tim.
Hoạt độ AST (và cả ALT) huyết tương cũng tăng trong bệnh cơ (loạn dưỡng cơ, viêm cơ, tiêu myoglobin) và các bệnh khác như viêm da, viêm tuỵ cấp, tổn thương ruột, nhồi máu phổi, nhồi máu thận, nhồi máu não, …
ALP
(Alkaline phosphatase)
ALP có nhiều ở gan, xương, nhau thai và biểu mô ruột. Vì vậy, bình thường, hoạt độ ALP huyết tương cũng tăng ở trẻ đang lớn và phụ nữ có thai ở quý 3 của thai kỳ.
Hoạt độ ALP huyết tương tăng trong viêm gan, tắc mật, xơ gan, …
GGT(γ- GT)
GGT có nhiều ở gan, do các tế bào biểu mô đường mật bài tiết ra.
Hoạt độ GGT huyết tương tăng khi các tế bào biểu mô đường mật bị cảm ứng tăng tổng hợp enzym như trong tắc mật, viêm gan do rượu, tổn thương tế bào gan.
Bilirubin (TP, TT, GT)
Bilirubin là sản phẩm thoái hoá Hem của hemoglobin, một phần nhỏ được liên hợp với glucuronat ở gan tạo thành bilirubin liên hợp (LH) hay trực tiếp (TT), phần còn lại là bilirubin tự do (TD) hay gián tiếp (GT).
Bilirubin TP huyết tương tăng trong các trường hợp vàng da do: tan huyết, viêm gan, tắc mật.
Bilirubin TD huyết tương tăng trong vàng da trước gan: tan huyết (thiếu máu tan huyết, sốt rét, truyền nhầm nhóm máu, vàng da ở trẻ sơ sinh).
Bilirubin LH tăng trong vàng da tại gan và sau gan: viêm gan,tắc mật, xơ gan.
Tổng phân tích nước tiểu thường được sử dụng trong các bệnh đái tháo đường, nhiễm ceton, đái nhạt, bệnh gan, mật, thận, bệnh viêm đường tiết niệu, đái máu… phát hiện sớm ngộ độc thai nghén.


Mọi thông tin chi tiết về xét nghiệm máu tại nhà vui lòng liên hệ: 0979 755 453

Xét nghiệm mỡ máu tại nhà

0 nhận xét

Xét nghiệm mỡ máu tại nhà (bilan Lipid) là một xét nghiệm máu tại nhà quan trọng cho các đối tượng trung niên và cao tuổi, đặc biệt là những cá nhân có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao, xét nghiệm bộ mỡ máu gồm có các xét nghiệm phổ biến như: Cholesterol, Tryglycerid, HDL_Choloesterol, LDL_Cholesterol…

Tên xét nghiệm: Cholesterol toàn phần

Chỉ định: Rối loạn mỡ máu, vữa xơ động mạch, tăng huyết áp, hội chứng thận hư, kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho những người trên 40 tuổi, những người béo phì…

Trị số bình thường: 3,9-5,2 mmol/l

Cholesterol tăng trong các trường hợp: rối loạn lipid máu nguyên phát hoặc thứ phát, vữa xơ động mạch, hội chứng thận hư, vàng da tắc mật ngoài gan, bệnh vảy nến…
Cholesterol giảm trong các trường hợp: hấp thu kém, suy kiệt, ung thư, biếng ăn …
Mẫu máu: Mẫu máu lấy tại nhà vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

Tên xét nghiệm: Triglycerid

Chỉ định: Rối loạn mỡ máu, vữa xơ động mạch, tăng huyết áp, hội chứng thận hư, u vàng, viêm tuỵ, kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho những người trên 40 tuổi, những người béo phì…
Trị số bình thường: 0,5- 2,29 mmol/l

Triglycerid tăng trong các trường hợp: Vữa xơ động mạch, rối loạn lipid máu, hội chứng thận hư, bệnh béo phì, đái tháo đường…
Triglycerid giảm trong các trường hợp: xơ gan, hội chứng kém hấp thu, suy kiệt, cường tuyến giáp…
Mẫu máu: Mẫu máu lấy tại nhà vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

Tên xét nghiệm: HDL-C

Chỉ đinh: Rối loạn mỡ máu, vữa xơ động mạch, tăng huyết áp, kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho những người trên 40 tuổi……
Trị số bình thường: ≥ 0,9mmol/l
HDL-C tăng: ít nguy cơ gây vữa xơ động mạch.
HDL-C giảm: dễ có nguy cơ gây vữa xơ động mạch, hay gặp trong các trường hợp rối loạn mỡ máu, vữa xơ động mạch, tăng huyết áp, cơn đau thắt ngực…
Người ta thường chú ý tới tỉ số CHOLESTEROL TOÀN PHẦN / HDL-C. Tí số này tốt nhất là <4, tỉ số này càng cao thì khả năng vữa xơ động mạch càng nhiều.
Mẫu máu: Mẫu máu lấy tại nhà vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

Tên xét nghiệm: LDL-C

Chỉ đinh: Rối loạn mỡ máu, vữa xơ động mạch, tăng huyết áp, bệnh mạch vành, đái tháo đường…
Trị số bình thường: £ 3,4mmol/l
LDL-C càng cao, nguy cơ bị vữa xơ động mạch càng lớn.
LDL-C tăng trong các trường hợp: Vữa xơ động mạch, rối loạn lipid máu, bệnh béo phì…
LDL-C giảm trong các trường hợp: xơ gan, hội chứng kém hấp thu, suy kiệt, cường tuyến giáp…
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin
Mọi thông tin chi tiết về xét nghiệm máu tại nhà xui lòng liên hệ: 0979 755 453

Phát hiện suy thận sớm bằng các xét nghiệm máu tại nhà

0 nhận xét
Biểu hiện lâm sàng của suy thận chỉ có khi bị hủy hoại trên 90% đơn vị hoạt động của cả hai thận. Những xét nghiệm định kỳ rất quan trọng để phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời. 


Trò chuyện tại Phòng Khám Đa Khoa Bắc Mỹ TP HCM, BSCKI Nguyễn Bảo Hiến , Trưởng phân khoa Niệu, Bệnh viện ABắc Mỹ TPHCM cho biết, suy thận là tình trạng giảm hoạt động của thận, làm cho thận không đảm bảo được các nhiệm vụ của mình, ảnh hưởng đến hoạt động của toàn cơ thể. 
Theo Phó giáo sư Phương, tùy theo lượng nước cung cấp, trọng lượng, điều kiện môi trường... cơ thể mỗi người thải ra 1-2 lít nước tiểu mỗi ngày. Nếu lượng nước tiểu nhiều hơn 2,5 lít, gọi là đa niệu. Lượng nước tiểu ít hơn 400ml là thiểu niệu và ít hơn 100ml là vô niệu.
Suy thận có thể xảy ra đột ngột gọi là suy thận cấp, hoặc diễn tiến từ từ tức suy thận mạn. Khi suy thận cấp, chức năng thận có thể hồi phục được. Suy thận mạn là chức năng thận suy giảm dần và cuối cùng mất hoàn toàn. Lúc này cần có các biện pháp điều trị hỗ trợ cho chức năng thận thì cơ thể mới sống được.
Phó giáo sư Phương cho biết, suy thận chỉ có biểu hiện lâm sàng khi bị hủy hoại trên 90% đơn vị hoạt động của cả hai thận. Vì thế biểu hiện lâm sàng rất mơ hồ, chỉ rõ ràng khi suy thận cấp hoặc suy thận mạn ở giai đoạn cuối:
- Lượng nước tiểu giảm hoặc lượng nước tiểu tăng quá nhiều.
- Các triệu chứng của thừa nước như phù, tăng huyết áp, suy tim, phù phổi, phù não.
- Các triệu chứng của tăng các chất độc trong máu như buồn nôn, nôn ói, chán ăn, đau cơ, đau xương khớp, co rút cơ hoặc liệt, loạn nhịp tim, khó ngủ, nổi mẫn da...
- Các triệu chứng của thiếu máu, da xanh xao, chóng mặt.
- Kèm theo các triệu chứng của bệnh lý gây suy thận như tiêu chảy, phỏng, chảy máu cấp, đau lưng, đau bụng, tiểu khó...
xét nghiệm máu tại nhà

Một số xét nghiệm đánh giá chức năng thận có thể thực hiện như tổng phân tích nước tiểu, đo lượng protein nước tiểu 24 giờ, tổng phân tích tế bào máu, các xét nghiệm sinh hóa, siêu âm bụng, chụp CT scan bụng, xạ hình thận bằng đồng vị phóng xạ, a
lbumin huyết thanh..."Tình trạng thận chỉ có thể đánh giá chính xác bằng cách sinh thiết thận, đọc các cấu trúc của các đơn vị thận dưới kính hiển vi. 
Các xét nghiệm hiện nay chỉ đánh giá tương đối chức năng thận, vì thế cần kết hợp nhiều xét nghiệm", bác sĩ Phương nhấn  mạnh.
Ở người suy thận, natri máu giảm (natri máu bình thường 135-145 mmol/L), có thể do nguyên nhân mất natri qua da, qua đường tiêu hóa, qua thận nhưng cũng có thể do thừa nước. Các triệu chứng lâm sàng của giảm natri máu chủ yếu ở hệ thần kinh đi từ nhẹ đến nặng như nhức đầu, buồn nôn, lừ đừ, hôn mê, co giật.
Lượng kali máu ở bệnh nhân suy thận tăng (kali máu bình thường 3,5-4,5 mmol/L) do thận giảm thải kali. Các triệu chứng của tình trạng tăng kali từ nhẹ đến nặng như mệt mỏi, dị cảm, mất phản xạ, liệt cơ, rối loạn nhịp tim.
Bên cạnh đó, người suy thận có biểu hiện tăng acid uric máu, giảm canxi máu kèm theo tăng phosphat. Triệu chứng hạ canxi máu chủ yếu là dấu kích thích thần kinh cơ gồm tăng phản xạ gân xương, co cứng cơ, co giật, rối loạn nhịp tim. Suy thận còn làm giảm thải các acid hình thành trong quá trình chuyển hóa của cơ thể hoặc mất bicarbonat gây tình trạng toan chuyển hóa cho cơ thể. Toan hóa máu làm loạn nhịp tim, rối loạn hô hấp, làm nặng thêm tình trạng tăng kali máu. 
BsCKI Nguyễn Bảo Hiến chia sẻ: Kiểm tra sức khỏe định kỳ mỗi năm chỉ làm các xét nghiệm đơn giản có tính định hướng như xét nghiệm sinh hóa máu, tổng phân tích nước tiểu, công thức máu, siêu âm bụng. Tiền căn gia đình có các bệnh di truyền về thận hoặc có người thân bị suy thận cần xét nghiệm sinh hóa máu, tổng phân tích nước tiểu, công thức máu, siêu âm bụng, các xét nghiệm chuyên biệt về di truyền.
Khi lâm sàng có các biểu hiện suy thận, cần xét nghiệm sinh hóa máu, tổng phân tích nước tiểu, công thức máu, siêu âm bụng. Nếu tìm thấy các nguyên nhân gây tắc nghẽn hệ niệu, làm thêm các xét nghiệm hình ảnh. Nếu không tìm thấy tắc nghẽn, có thể sinh thiết thận.
Có tiền căn can thiệp thủ thuật, phẫu thuật lên đường tiết niệu hoặc các cơ quan trong bụng, phải xét nghiệm sinh hóa máu, tổng phân tích nước tiểu, công thức máu, siêu âm bụng. Nếu có dấu hiệu tắc nghẽn cần làm thêm các xét nghiệm hình ảnh.
Mọi thông tin chi tiết về xét nghiệm máu tại nhà vui lòng liên hệ: 0979 755 453